“ Bản quyền cho những công trình sáng tạo tự động có hiệu lực ngay từ
phút đầu khi được sáng tạo mà không cần phải được xác nhận hay công bố. Tác giả
không cần phải đăng ký, hoặc xin biên lai bản quyền (copy right) ở những quốc
gia sở tại .
Ngay khi tác phẩm của họ được “định vị” trên một phương tiện ghi chép cụ
thể (physical, tangible, medium) thí dụ như viết trên giấy, vẽ trên vải là tác
giả đã tự động được hưởng toàn bộ chủ quyền trên tác phẩm hoặc những sản phẩm
phát xuất (biến đổi) từ tác phẩm chính (derivative work)
Sáng
tạo, tim óc cũng là chuyện có thể thuê mướn được. Ðó là trường hợp mà luật pháp
Hoa Kỳ gọi là Work for hire. Ðịnh nghĩa căn bản là khi tác giả được thuê để hoàn thành tác phẩm và
sáng tác được thực hiện trong khuôn khổ, điều kiện nơi được mướn làm việc
(within the scope of employment)
hoặc có giao kèo
Ðông Duy Hoàng Kiếm Nam
Hơn bốn chục năm
trên mảnh đất tạm dung đã trở
thành vĩnh viễn, giới văn nghệ sĩ Việt nam lưu vong đã phải đối đầu với đủ loại
khó khăn, từ mưu sinh cơm áo, hội nhập mệt mỏi vào xã hội mới ở tuổi không còn trẻ nữa, cho tới sự khô héo của môi
trường sinh hoạt văn học Hải ngoại.
Ngoài những khó khăn này còn một vấn đề tuy liên quan
mật thiết đến sinh mạng của một tác phẩm
và dấu ấn văn học của một tác giả thường bị lãng quên, coi nhẹ hoặc hiểu lầm đó
là vấn đề bản quyền.
Những cuộc thăm hỏi trong giới sáng tác nghệ thuật
Việt Nam cho thấy phần lớn những trước
tác gia đều nhận định sai lầm hoặc thiếu sót về luật bản quyền được thiết lập
trong công ước Berne từ năm 1886 tại Thuỵ sỹ và có sự ra nhập và thừa nhận của
HK từ tháng 3 năm 1989.
Ðịnh nghĩa về bản quyền
theo công ước Brene
Theo định nghĩa về bản quyền phát xuất từ công ước
Brene thì bản quyền là một yếu tố bẩm
sinh có ngay từ lúc khởi đầu sáng tác cho tới bất cứ giai đoạn nào trong
quy trình sáng tạo. Người ta cũng quy định cụ thể hơn môt chút khi cho rằng :
“ Tác
quyền là một quyền pháp định nhằm bảo vệ những công trình, sản phẩm trí tuệ của
một tác giả một khi “đã được định vị trên một phương tiện cụ thể tangible
medium” nhằm thể hiện sáng tạo của tác giả.
Bản quyền này bao gồm cả những tác phẩm đã xuất bản
hoặc chưa xuất bản.
Ðịnh nghĩa về tác quyền từ lâu đã bị hiểu sai lầm hoặc
thiếu sót khi cho rằng:“một tài sản trí tuệ chỉ có bản quyền nếu đã được chính thức đăng
ký tại quốc gia sở tại.”
Ðòi hỏi đăng ký này được huỷ bỏ qua công ước Berne và đã áp dụng như một luật định tại những quốc gia
hội viên trong đó có Hoa Kỳ. Theo quy định mới, được minh sác trên văn bản
chính thức của sở đang ký bản quyền (coyright office) thì:“ Bản quyền cho những công trình
sáng tạo tự động có hiệu lực ngay từ phút đầu khi được sáng tạo mà không cần
phải được xác nhận hay công bố. Tác giả không cần phải đăng ký, hoặc xin biên
lai bản quyền (copy right) ở những quốc gia sở tại .
Ngay khi tác phẩm của họ được “định vị” trên môt phương tiện ghi chép cụ
thể ( medium) thí dụ như viết trên giấy, vẽ trên vải là tác giả đã tự động được
hưởng toàn bộ chủ quyền trên tác phẩm hoặc những sản phẩm phát xuất (biến đổi)
từ tác phẩm chính (derivative work)
Cụm từ “ được ghi lại, được thể hiện trên một
phương tiện cụ thể.” sẽ rất quan
trọng trong việc xác nhận tác quyền
Thí dụ , một cốt truyện nẩy sinh trong đầu một nhà
văn chỉ là một ý kiến, sáng kiến nên
không có tác quyền. Nhưng khi ý kiến này được viết xuống trên giấy, đánh máy
trên computer, vẽ hình, thu thanh, quay video
thì sẽ được kể là một tác phẩm có
bản quyền ngay từ nét chữ đầu tiên.
Một hoạ sĩ,
ngay từ nét cọ đầu tiên trên khung vải đương nhiên đã sở hữu tác phẩm này mà
không cần tới bất cứ một sự ghi nhận pháp lý nào.
Từ
lâu rồi, những ngộ nhận đã đưa tới nhiều lạm dụng khi người ta cho rằng bắt
buộc phải mang đăng ký tại văn khố thư
viện quốc hội Hoa Kỳ để có biên lai và
số đăng ký thì tác giả mới có chủ quyền.
Ðiều này hoàn toàn sai lầm vì sáng tạo trí tuệ là một
sở hữu bẩm sinh của tác giả, không đỏi hỏi phải đăng ký trong giai đoạn thực
hiện hay khi đã hoàn tất để ra mắt công chúng hay khai thác thương mại.
Thời trước, một nhà văn chỉ có bút giấy để thực hiện
một bản thảo nhưng hiện nay điều được gọi là “phương tiện cụ thể ” để ghi nhận một sáng tạo đã mở rộng rất nhiều
.
Computer, thu thanh, hình chụp CD video, trạm, khắc
nắn tượng vv. đều là những phương tiện cụ
thể và cố định (fix media) để ghi nhận bản quyền.
Việc đăng ký bản quyền là hoàn toàn do chủ quan của
tác giả, chỉ đóng góp rất nhỏ trong phần
chứng minh quyền sở hữu, đặc biệt là khi cần phải tranh tụng vi phạm bản quyền.
Cho tới 2014 đã có 218 quốc gia chuẩn y công ước Berne
và những quốc gia trong WTO cũng hầu như phải tuân thủ luật bản quyền vì một
trong những điều kiện gia nhập tổ chức này là một thoả ước thương mại liên quan tới quyền sở hữu tài
sản trí tuệ (intellectual property right)
Hoa kỳ chấp nhận công ước Berne
nhưng có một điểm hơi khác với công ước chung là luật pháp Hoa Kỳ chỉ chấp nhận việc bồi thường thiệt hại
(statutory dammage) và án phí thù lao luật sư đối với nhửng tác phẩm đã có đăng
ký bản quyền.
Nói khác đi là ỡ Hoa Kỳ, nếu muốn kiện và
đòi bồi thường một người đạo văn thì trước hết phải có đăng ký copy right tại
quốc gia sở tại.
Luật bản quyền đuợc thừa nhận trên toàn thế giới do đó
điều luật đặc thù của Hoa Kỳ chỉ là để ngăn ngừa những vụ thưa kiện vô lối khi
mà bấât cứ ai cũng có thể tự nhận là tác giả để tranh tụng bản quyền
Prima
facie?
Còn một điều
khác cần lưu ý đặc biệt trong giới nhà
văn VN đó là khoản trong luật định được gọi là “prima facie.” liên quan tới việc đăng ký bản quyền
Prima có nghĩa là đầu facie có nghĩa là có mặt hoặc sự
đánh dấu xuất hiện. Ðơn giản là việc đăng ký bản quyền với thư viện quốc hội
Hoa Kỳ.
Người
khiếu kiện vi phạm bản quyền có thể đưa ra số biên lai đăng ký Copy right như
một bằng chứng tiên khởi để xin toà án
tiếp tục thụ lý vụ án nhưng không có nghĩa là bản quyền đã được thừa nhận là
hợp pháp
Trong điều kiện sinh hoạt khó khăn tại hải ngoại, rất
nhiều nhà văn, thi sỹ, nhạc sĩ di tản
trong nhiều năm vẫn nỗ lực sáng tạo trong âm thầm nhưng chưa chính thức xuất
bản vì thiếu tài chánh, chưa vừa ý, còn tiếp tục sửa chữa hoặc đã xuất bản
nhưng không biết hoặc không lưu tâm tới việc đăng ký.
Ở thời đại điện tử, một số tác phẩm còn được phát tán
cho nhiều người dưới dạng phổ biến hạn chế qua E mai, CD hoặc copy vì chưa có
tiền xuất bản.
Nếu chẳng may trong số những thân hữu được đọc những
tài liệu trong vòng thai nghén này lại có những tên đạo tặc chữ nghĩa, những
con buôn, những gã háo danh thì việc bảo vệ bản quyền có phần nào ảnh hưởng vì
điều luật prima facie.
Theo điều luật prima
facie thì nếu việc đăng ký tác quyền sảy ra trong vòng 5 năm thì đương đơn
có thể dùng làm một bằng chứng sơ khởi
để toà “cho phép tiến hành vụ án” trong
vòng sơ thẩm (preliminary hearing) .
Nhiều người không hiểu rõ chuyện này nên vẫn cho rằng biên nhận và danh số copy right là bằng chứng có giá trị tuyệt đối về tác
quyền. Nói khác đi, ai đăng ký trước thì
có tác quyền
Thật ra, prima
facie không phảïi là một bằng chứng tuyệt đối về tác quyền vì nó đi ngược lại
với văn bản nền móng của luật tác quyền theo đó: “ một tác phẩm là sở hữu bẩm
sinh của tác giả ngay từ phút đầu sáng tạo.”
Bọn
đạo văn, bọn hiếu danh, con buôn có thể ăn cắp bản thảo rồi âm thầm đăng ký
copy right và tưởng rằng ra tay trước như vậy là ăn chắc.
Người ta có thể đăng ký bất kỳ bản thảo nào mà không
hề bị cật vấn và sẽ có ngay biên lai ghi nhận ngay cả làm giấy nhận bản quyền
Truyện Kiều là của mình.
Nói dung tục thì đăng ký copy right cũng tương tự như
việc giấu đóng ngày sản xuất trên một
gói thịt heo mua ở chợ
Trong định nghĩa luật pháp, prima facie chỉ coi
việc đăng ký copy right như là một bằng
chứng “sơ khởi” để người khiếu kiện (đương đơn) không bị toà huỷ bỏ việc cứu
xét ngay từ bước đầu sơ vấn .
Có đăng ký bản quyền tức là có Prima facie thì đương
tức là người đi kiện có ưu điểm là ngay ở mức sơ thẩm sẽ không bị bên “ bị đơn”
xin toà cho miễn tố, chấm dứt, huỷ bỏ từ trứng nuớc những vụ khiện vớ
vẩn, không đủ yếu tố tiến hành vụ án.
Său prima facie, giai đoạn kế tiếp “ burden of proofs, burden of evidense” mới
là đòi hỏi quan trọng để chứng tỏ ai gian ai ngay
Nói đơn giản là đương đơn phải trưng ra đủ loại bằng
chứng liên quan tới vụ kiện đủ để thuyết phục chánh án hay bồi thẩm đoàn.
Nếu thất bại trong việc chứng minh này thì : “bị đơn” sẽ xin toà huỵ bỏ ngay vụ án mà
không cần đưa bằng chứng phản biện.
Thí dụ trong một nghi án giết người, ở vòng sơ thẩm
luận tội xem có đủ yếu tố không, nếu
công tố viện có bằng chứng là nghi can từng hăm doạ “tao giết mày “ thì câu nói
này là một Prima facie để phiên toà tiếp tục.
Một số tác giả tuy chưa đăng ký nhưng vẫn để đấu hiệu copy right by và all rights reserved để
làm cảnh vì nghĩ rằng như vậy là đủ bảo đảm tác quyền .
Mặt khác, nhưng gã đạo văn lại nghĩ rằng một khi đã có
ghi nhận đăng ký là đã cướp cạn được tác phẩm của người khác . Cả hai
điều này đều không đúng.
Việc đang ký copyright với sở đăng ký thư viện quốc
hội chỉ là chuyện “cần làm ” khi “tác
giả thực sự ” của một tác phẩm muốn có
mộït bằng chứng tiên khởi để không bị bồi thẩm đoàn bác bỏ (dismiss) vụ
án ngay từ đầu.
Nói
khác đi là khi muốn thưa người khác ăn cắp sáng tác của mình hay ngược lại, khi
bị bọn đạo văn ăn cắp tác phẩm rồi dùng tiền bạc thưa ngược tác giả thì đó là
lúc phải copy right để phản tố (counter
sue) hay phản cung tự vệ.
Việc làm copy
right này có thể tùy nghi làm bất cứ lúc nào củng được.
Thủ tục toà án rất phức tạp, phiền nhiễu, tốn
kém. Người khởi tố một vụ vi phạm bản
quyền phải đưa ra đủ bằng chứng về chủ quyền tác phẩm của mình, với nhân chứng,
tài liệu, quá trình làm việc vv.
Phía người bị truy tố vi phạm cũng phải hành động
tương tự để biện minh
Trong thực tế, bọn con buôn, bọn đạo tặc văn nghệ
thường vô lương tâm và có tiền của. Phía văn nghệ sĩ di tản vốn nghèo nên
thường phải cay đắng bỏ cuộc vì không có thời giờ và phương tiện để theo đuổi
vụ kiện.
Nhạc sĩ Phạm Vinh, Phượng Vũ, nhà văn Lâm Tường Dũ,
nhà thơ phê bình gia Nguyễn Mạnh Trinh từng đã trải nghiệm những vụ vi phạm hay
cướp cạn bản quyền
Mua
tranh không mua được tác quyền
Trong ngành hội hoạ cũng có những vi phạm không ngờ
tới .
Giới hoạ sĩ và
ngành tạo hình Việt Nam
thường không biết rõ những quyền lợi của mình sau khi đã bán một tác phẩm.
Một
bức tranh được bán đi, người hoạ sĩ vẫn giữ tác quyền đối với sản phẩm trí tuệ
của mình. Người mua tranh chỉ sở hữu quyền thưởng ngoạn bức tranh và những sản
phẩm vật chất như khung ảnh vải bố mà thôi.
Nếu bức tranh său khi bán được sao chụp lại, được in
ra nhiều bản hoặc mang bán kiếm lời, dùng làm phương tiện quảng cáo, mạo nhận
tác quyền bằng cách tẩy xoa tên tác giả viết tên mình vào vv là đã vi phạm tài sản tinh thần của tác giả
(ngoại trừ có giao kèo thoả thuận trước)
Hiện nay việc in lại, chụïp hình digital, sửa chữa
ngụy tạo trên photo shop quá dễ dàng.
Việc in lại hình ảnh trên Canvas tạo được những tác
phẩm copy “tương tự ” và hẫp dẫn như nguyên bản khiến việc bán tranh hoặc sự
chuyển nhượng bản quyền trên quan điểm luật pháp của giới tạo hình cần được
nghiên cứu lại nghiêm chỉnh.
Trong phạm vi
hội hoạ, vì là một tranh vẽ nên người mua cũng có quyền đòi hỏïi sự “độc nhất vô nhị” của của tác phẩm. Có nghĩa là tuy hoạ sĩ giữ
bản quyền nhưng chính hoạ sỹ cũng không được quyền sao chụp, phát tán dưới mọi
hình thức (nhất là cho mục tiêu thương mại). Phía người mua tranh cũng bị cấm
đoán tương tự.
Chuyển
nhượng quyền sở hữu
tài
sản trí tuệ :
exclusive
và non exclusive
Tóm lại, chính yếu là những quy định luật pháp về sự
chuyển nhượng quyền sở hữu .
Sự chuyển nhượng này theo luật Hoa Kỳ phải được ghi
nhận trên văn bản. Văn bản có thể đơn giản hay phức tạp nhưng “chính yếu phải có chữ ký của tác giả”.
Sự chuyện nhượng có thể là đặc quyền (exclusive) hay
không độc quyền (nonexclusive). Nếu là non exclusive thì sự sang nhượng dễ dàng
hơn, tác quyền có thể bán cho nhiều người và chỉ cần nói miệng hay hiểu ngầm
cũng được.
Trong giớùi hội
hoạ một vài người còn cẩn thận đòi người mua phải làm mộït văn kiện về giá
trị của sản phẩm “Statement of value”
hoặc certificate of authenticity trong đó có ghi ngày bán, giá bán vv và những
điều kiện được hai bên ký kết liên quan tới việc xử dụng khai thác sản phẩm
Bình thường thì không có vấn đề nhưng “chẳng may” một
bức tranh đột nhiên có giá, một tác phẩm được quay thành phim hay best
seller lúc đó những vấn đề quyền lợi sẽ
nẩy sinh.
Không những quyền lợi vật chất mà còn vấn đề mỹ học,
nghĩa vụ luận, danh dự nghề nghiệp nữa.
Giả sử một tác phẩm ưng ý của hoa sỹ Khánh Trường vẽ
theo chủ đề mà ông goi là “Cõi Tịnh độ
của nước Phật” lại được một tên trọc phú mua về chụp hình và cho in như một
hình trang trí trên giấy napkin hay bao rác, giấy vệ sinh thì dù không liên
quan tới tiền bạc nhưng hoạ sỹ vẫn có thể kiện đòi bồi thường được. Vì thế, nếu
có tiêu chuẩn soạn sẵn môït giao kèo (bill of sale) thi sẽ tránh được nhiều
chuyện nhức đầu như nói trên.
Trên nguyên tắc, những ca sĩ khi trình diễn một tác
phẩm trong một môi trường thương mại như hãng thu băng, đại nhạc hội vv là phải
được sự đồng ý của tác giả.
Trong phạm vi âm nhạc việc vi phạm tràn đầy trên
Internet, utube nhưng những nghiên cứu khoa học lại cho thấy vi phạm kiểu này
lại làm tăng thương vụ vì nó như một hình thức quảng cáo.
Trong thực tế điều kiện xin phép trực tiếp khó thực
hiện vì một mặt người nhạc sĩ cũng cần có ca sĩ để phổ biến tác phẩm của mình
tuy nhiên với những tác giả quá nổi tiếng như Phạm Duy, Phạm Ðình Chương, Văn
Cao thì quyền lợi vật chất lại nổi rõ lên nhất là đối với những hậu duệ không
mấy khá giả như Văn Cao khi tác phẩm dược khai thác thương mại.
Bóp
chết hay phát triển văn học, trí tuệ
Một câu hỏi được đặt ra là nới rộng luật bản quyền,
không đòi hỏi tác giả phải đăng ký có cản trở sự phổ biến văn hoá sâu rộng hay
không.?
Tiên
khởi luật mới đăït nặng và tôn vinh vai trò sáng tạo của con người, trả lại sự
tự do tuyệt đối cho sáng tạo. Công việc của trí tuệ là sáng tạo vì thế không
thể bị ràng buộc hay chi phối bởi những ảnh hưởng bên ngoài.
Nói như thế có vẻ mơ hồ nhưng hãy tưởng tượng, tôi là
một nhà thơ, tôi sáng tạo một vần thơ trên giấy thì bài thơ đó bẩm sinh là đứa
con tinh thần của tôi không cần phải trình báo gì cả. Mọi người phải tôn trọng
vì nó là sở hữu máu thịt của tôi.
Một thi sĩ vô danh
từ 200 năm trước làm mộït bài thơ không ai biết đến, 200 năm sau có
người tìm ra được thì bài thơ đó vẫn là của thi sĩ đó. Sẽ là ăn căp nếu tôi lấy
bài thơ đó đăng ký copy right tên mình.
Trên mặt báo hàng ngày, trên mạng xã hội có hàng ngàn
thi sỹ văn sỹ vô danh với những bài thơ xuất sắc đột xuất mà không hề có copy
right mà trên nguyên lý là sản phẩm trí tuệ của họ .Trong thực tế vẫn có người
đi ăn cắp sáng tạo của người khác nên đã nẩy sinh luật bản quyền.
Tôi ngẫu hứng phổ nhạc hai bài thơ của hai người bạn
thân là ký giả Nguyễn Khắc Nhân và Ðặng Tường Vi. Yêu quý nhau thì phổ nhạc thơ
của nhau nhưng nếu bài nhạc này trở thành nổi tiếng và ông bạn tôi thay lòng
trở thành tham lam thì ông Nguyễn Khắc Nhân có thể kiện tôi vi phạm bản quyền
và thưa ra toà đòi thiệt hại.
Với thời gian, chính luật bản quyền này lại bị vi phạm
trầm trọng vì những thế lực hoặc kẻ gian dùng sự ràng buộc của luật lệ và mánh
khoé để cướp cạn tim óc kẻ yếu thế.
Ông Khai Trí là
người được mô tả rất tử tế với giới văn nghệ sỹ nghèo, rộng rãi và sòng phẳng ,
sẵn sàng mua bản quyền của nhiều tác giả vô danh và nghèo nhưng său đó để những
tác phẩm này héo hon đóng bụi trong kho nhà xuất bản.
Bỏ đòi hỏi phải copy right cũng tạo khó khăn mới là bất cứ ai cũng có thể
thành tác giả, thành thi si, văn sỹ và bất cứ ai cũng có thể đâm đơn kiện vi
phạm bản quyền nếu người đó thuộc loại “chí phèo” và có tiền nuôi luật sư.
Việc phổ biến văn hoá do đó cũng bị hạn chế vì một mặt
đòi hỏi phải liên lạc được với tác giả và phải có những thoả thuận phiền toái
để xin phép tác giả Một người khác lấy cốt truyện của hoạ
sỹ Rừng quay thành phim cũng đã phải viết thơ xin lỗi.
Tương tự cũng có người in lại không xin phép bản dịch
một truyện ngoại quốc mang tựa đề “người vợ cô đơn “ của nhà văn Mặc Ðỗ nên său
khi được luật sư thông báo đã xin lỗi việc vi phạm.
Trong vụ này người ta thấy có thể đã có hai vi phạm vì
trước đây tại Việt Nam trong nhu cầu phổ biến văn hoá quốc tế, rất nhiều tác
phẩm ngoại quốc đã được phiên dịch hay phóng tác ra tiếng Việt mà không hề có phép của tác
giả.
Trong thực tế chuyện xin phép này này rất khó thực
hiện trong bình diện quốc tế, nhất là đối với nhũng tác phẩm nhỏ như truyện
ngắn , thơ , đoản văn được chuyển ngữ ra tiếng Việt vv.
Dù vậy, vẫn có những nhà văn hoá có lương tâm chức
nghiệp cao như trường hợp nhà văn Minh Thu của tuần báo Văn Nghệ ở Việt Nam đã
viết thơ xin phép nhà văn Viên Linh được đăng lại tiểu thuyết “Nơi tôi đã ở”
của ông.
Ðây là một tờ báo chính thức của hội nhà văn Việt Nam
nên trên Manchette có hàng chữ “ vì xã hội chủ nghĩa” .
Ông Viên Linh
trả lời là chỉ đồng ý nếu những số báo có đăng bài của ông bỏ đi hàng chử “vì chủ nghĩa xã hội” nói
trên. Ðây là một khước từ khéo léo.
The
poor man’s copy right” .
Ngược lại, với sự nới rộng định nghĩa về tác quyền (
copy right) tác giả cũng phải có những biện pháp đề phòng bọn đạo tặc văn nghệ
bằng cách duy trì, kiến tạo những bằng chứng về
quá trình sáng tạo để tự bảo vệ nếu có kẻ muốn cươp dựt tác phẩm của
mình.
Vì thế , có chuyện buồn cười nhưng từng được áp dụng
đó là việc đăng ký copy right theo điệu con nhà nghèo. ”the poor man’s copy right” .
Tác giả bỏ bản thảo vào một phong bì gián kín, mang ra
bưu điện gửi bảo đảm cho chinh mình và dùng dấu bưu điện làm bằng chứng.
Nói chung là làm nhiều cách để có tang chứng đứa con
tinh thần là của mình không phải đi nhặt
ngòai đường . Thí dụ khác là gửi copy bản thảo cho bạn bè coi , mang khoe với
mọi người vv..
Những
người ủng hộ quan điểm bỏ đăng ký copy right thì cho rằng vì sáng tạo là làm
nẩy sinh cái mới dựa trên những cái cũ. Luật chỉ cấm ăn cắp nguyên con thôi
nhưng nếu dùng ý kiến của người khác để tạo cái mới, dưới một thình thức mới
hoặc trích dẫn thì được.
Thí dụ đọc tập thơ “Thuỷ Mộ Quan” của nhà thơ Viên Linh tôi có thể lấy sáng kiến này
làm thành một bài thơ nhan đề “ Ðường
vào Mộ Biển”. Cùng ý nhưng sáng tạo mới. Ông Hoàng Khởi Phong năm 1975 là
bài thơ “ khi tôi chết xin hãy làm thuỷ
táng” .Său này có bài thơ của Du tử Lê “
Khi tôi chết xin mang tôi ra biển” Tôi tiếp ý này làm bài thơ “ khi tôi chết xin hãy làm không táng”
Theo
luật định, một bài thơ, một cuốn truyện là những sáng kiến, những sáng tạo được
định hình bởi tác giả qua tác phẩm ghi trên giấy. Tác giả chỉ có thể copy right
tác phẩm nhưng không thể copy right những tư tưởng, ký kiến, quan niệm ghi
trong tác phẩm vv.
Một người khác có thể khởi từ những tư tưởng này tạo
nên những sáng tạo mới, đăc thù hơn nhờ đó những sản phẩm trí tuệ ngày càng
phong phú hơn mà không bị ràng buộc quá chặt chẽ bởi copy right.
Làm
thuê viết muớn
(work for hire)
Sáng
tạo, tim óc cũng là chuyện có thể thuê mướn được. Ðó là trường hợp mà luật pháp
Hoa Kỳ gọi là Work for hire. Ðịnh nghĩa căn bản là khi tác giả được thuê để hoàn thành tác phẩm và
sáng tác được thực hiện trong khuôn khổ, điều kiện nơi được mướn làm việc
(within the scope of employment)
hoặc có giao kèo
Trong
trường hợp làm thuê viết muớn này người chủ mới có bản quyền và người làm công
(thí dụ nhà văn, hoạ sỹ) chỉ có thể xử dụng tác phẩm của mình nếu có tự thoả
thuận với chủ nhân.
Chủ nhân có thể là tổ chức hay cá nhân. Nếu là môt tác
phẩm hòan thành tập thể thì phải có văn bản đồng ý của các thành phần tham dự.
Cụm từ căn bản và quan trọng trong trường hơp viết
mướn là :
“Thực hiện công
trình trong khuôn khổ, điều kiện nơi được muớn làm việc (within the scope of
employment).”
Thí dụ một ký giả ăn lương của tờ báo, ngồi tại toà
soạn, dùng các phương tiện của tòa báo
như computer, điệân thoại, bàn ghế để
viết một bài phóng sự thì đó là tài sản của tờ báo. Thù lao trích dịch bài báo
này sẽ trả cho tờ báo.
Ðiều
chính yếu là bằng chứng trong quá trình làm thuê viết mướn phải thể hiện qua
một hợp đồng thuê mướn có chữ ký của những phe liên hệ.
Không
có hợp đồng tương thuận này giữa những đối tác thì khó có thể chứng minh một
công trình là Work for hire. Làm việc có sổ lương là một thứ hợp đồng làm thuê.
Gửi một bài báo đến cho toà báo, nhận tiền nhuận bút,
sau đó xuất bản những gì đã viết không là vi phạm bản quyền vì bài viết thực
hiện ngoài toà soạn, không dùng phương tiện của toà báo. Tác giả chỉ chuyển
nhựơng bản quyền hạn chế (non exclusive) cho toà báo.
Hội
Văn Bút, Hội Ký Giả, Hiệp Hội Truyền thông
Ðã 49 năm qua, thân phận những người nặn tim óc của
mình ra để sáng tạo đi từ chỗ hoang mang
đói rách, tới tuyệt vọng.
Trong 49 năm đó, đã có rất nhiều hội đoàn liên quan
hoặc nhân danh giới cầm bút và văn nghệ sỹ nhưng những hội đoàn này chưa có một
hoạt động nhằm yểm trợ, phục vụ hay bảo vệ quyền lợi thực tế của giới văn nghệ
Chỉ riêng quận Cam ở Cali cũng có hàng chục hội đoàn liện quan tới
sinh hoạt văn học nghệ thuật của nguời Việt Hải ngoại. Kể không thể hết được
nếu xét trên toàn nước Mỹ.
Khởi đầu là những hội thuộc loại “chính quy” của giới cầm bút
thí dụ như những chi nhánh những
hội văn bút thuộc tộc chức văn bút quốc tế Pen Itrenational, hội nhà văn không
biên cương, và ở Nam Cali cũng có ba hội như hội văn bút Tây nam Hoa Kỳ, Hội
văn bút thế giới, hội ký giả, hiệp hội báo chí và truyền thông Hoa Kỳ và rất
nhiều hội tương tự như hội Vaala ( Vietnamese American arts and letter
association, Hội phát triển nghệ thuật truyền thông Việt Nam vvv..
Một vài hội doàn còn may mắn
được tài trợ của chính phủ dưới chương trình quốc gia tài trợ nghệ thuật
(national endowment for the arts
Những hội đòan này, trong giai đoạn đầu tỵ nạn chỉ chú
ý vào những mục tiêu lớn lao mang tính đấu tranh chính trị nói chung cho quyền
tự do tư tưởng và sáng tác, thí dụ tranh đấu cho những văn nghệ sỹ bị cầm tù ở
quê nhà.
Những nỗ lực này dần đần nhạt nhoè đi, các hội đòan
cũng tàn úa theo vì không có thực lực, chính yếu là giới cầm bút và báo chí
chia năm xẻ bẩy theo quyền lợi cá nhân, tổ chức hay cứu cánh thương mại.
Quận cam có 3
tờ nhật báo lớn và vài chục tờ tuần báo lẻ tẻ nhưng không ai nói ai nghe. Trong
nhiều năm, giới cầm bút chuyên nghiệp trở thành những con mồi để bọn con buôn
chữ nghĩa hút máu. Những tác phẩm cũ được ào ạt tái bản mà không cần thoả thuận
hay ưng thuận của tác giả. Nhiều nhà xuất bản, những tiệm sách không những làm
giầu trong những năm đầu său 1975 nhờ tái bản sách cũ.
Nắm trong tay phương tiện phát hành một vài nhà sách,
nhà xuất bản còn bóc lột, thao túng thị
trường chữ nghĩa, đàn áp, coi rẻ những
nhà văn nhà thơ vẫn cố gắng sáng tác ở hải ngoại . Ðám con buôn chữ nghĩa này
vẫn vênh váo, hỗn sược, cưỡng đoạt tài sản trí tuệ của giới sáng tác. Ngoài
khoản hoa hồng nhiều khi lên đến 60%, nhà văn mang sách đến gửi bán coi như
được ban ân, khi đến thu tiền bán sách bị chủ tiệm coi như ăn mày, chủ tiệm
sách ăn nói hỗn hào hoặc quỵt tiền. Những báo lớn thì phe đảng, dành đất đăng
cáo phó hơn là giúp giới thiệu hoặc phát huy những sinh hoạt văn học nghệ
thuật.
Kết quả ra sao đã quá rõ. Không có sự hỗ trợ của các
nhà xuất bản, tiệm sách, ấn phí quá cao, không rõ thủ tục đăng ký, không thể
kiếm sống tối thiểu bằng nghề sáng tác, hầu hết những văn nghệ sỹ nhà nghề đều
bỏ cuộc hoặc một số người đành mang tác phẩm mà mình thai nghén trong nhiều năm
ra tặng không cho những nhà xuất bản với an ủi là đứa con tin thần của mình, ít
nhất đã ra đời và có được vài cuốn để tăng bạn bè.
Ðiển hình như nhà văn nhà báo Huỳnh Văn Lang, nguyên
chủ nhiệm tạp chí Bách Khoa với những tác phẩm đồ sộ đầy chi tiết chính sác và
sống động liên quan tới thời đê nhất Cộng Hoà trong đó ông là một thành viên
thân cận với tổng thống Diệm ngay từ ngày đầu trứng nước, đã phải thân tặng
công trình của mình cho nhà xuất bản, chỉ mong đứa con tinh thần được ra đời.
Nhà văn Mai Kim Ngọc và rất nhiều tác giả mới cũng hành động tương tự
Digital
out oput và Internet
Trong những năm gần đây, những tiến bộ lớn lao, mau
chóng trong ngành điện toán và kỹ thuật digial ouput cũng tạo một sinh khí mới
cho giới văn nghệ sỹ đồng thời cũng nẩy sinh
những khó khăn mới trong đó vai trò của những hội đoàn đại diện giới văn
học nghệ thuật cần phải đặt lại vai trò và nghĩa vụ của mình đối với với đồng
nghiệp.
Trước hết với
computer và những chương trình đánh máy tiếng Việt khởi đầu với công ty VNI đã
giải quyết được 50% khó khăn trong việc ấn hành tác phẩm (vốn là một gánh nặng
hầu như không thể vượt qua được trong giai đoạn 1975).
Phần sắp chữ đã giải quyết nhưng cách đây 10 năm ấn
phí còn quá cao. In một cuốn sách 300 trang với bìa mầu offset có thể tốn vài
ngàn dola nên rất ít tác giả có khả năng cho đứa con tinh thần ra chào đời trừ
những sản phẩm nhắm vào thị hiếu như sách bói toán, truyện ma quỷ, truyện khiêu dâm.
Thêm một bước tiến quan trọng khác trong vài năm gần
đây là kỹ thuật digital output bằng lazer copier, một tác phậm có thể in với số
lượng cực ít, từ một cuốn tới vài trăm cuốn, bìa mầu tuyệt đẹp, chuyên nghiệp
mà giá cả chỉ vài dola.
Ngoài digital ouput, nếu tác giả không cần tiền, hay
chưa có tiền in, có thể phổ biến tác
phẩm của mình trên mạng Internet hay nhờ Amazon bán tác phẩm dưới dạng e book
hay sách in theo cung cầu. Ai đặt mua thì amazon mới in từng cuốn một .
Những phương tiện tân tiến này đột nhiên đẩy mạnh số
người gia nhập làng sáng tác, hay, dở, điên khùng, mua danh có đủ mặt.
Việc phát tán
quá đễ dàng những phương tiện ghi chép và ấn loát điện tử này tạo ra một số vấn
đề liên quan tới bản quyền.
Ngày trước một tác giả thường chỉ có một bản thảo viết
tay duy nhất hay đánh máy chữ sao ra mộït hai bản nên việc ăn cắp bản thảo,
nguỵ tạo tác quyền khó xẩy ra.
Hiện nay, rất nhiều tác giả trong quá trình biên soạn
thường E Mail cho thân hữu để thông tin, lấy ý kiến hay phổ biến hạn chế trên
face book, trên những tạp chí điện tử khiến việc đánh cắp bản thảo hay copy xâm
phạm bản quyền (plagiarism) rất đễ sẩy ra.
Ngay cả cũng có những người háo danh hay những kẻ gian
tham ăn cắp tác phẩm của người khác, sửa sang láo lếu rồi đăng ký với tên mình
hay biến đổi sơ sịa để khai thác thương mại hay chỉ in ra vài bản mang khoe để
tự nhận là nhà văn.
Tất nhiên cần lưu ý là việc mang đăng ký, hoặc in ra
vài ấn bản hard copy như nói ở trên tuy
hoàn toàn vô giá trị trong việc thừa nhận tác quyền nhưng không vì thế không
gây phiền toái cho tác giả thực sự của tác phẩm .
Có những trường hợp mà sự mạo nhận hay vi phạm đi quá
đà hoặc liên quan tới quyền lợi nặng nề, kẻ đánh cắp lại có nhiều tiền bạc đã
kiện ngược tác giả thì lúc đó có hai vấn đề nẩy sinh đó là việc chứng minh tác
quyền thực sự và những tốn phi liên quan tới tranh tụng.
Thường thì những nhà văn, nghệ sỹ Việt nam di tản
không kham nổi nên đành chịu thua.
Ðây là lúc mà vai trò của những hội văn hoá có thể
đóng một vai trò tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi của những người cầm bút
chân chính.
Làm
sao bảo vệ
Việc đăng ký tuy không bắt buộc và khá đơn giản và có
thể làm bất cứ lúc nào nhưng cũng ít nhiều tốn phí khiến nhiều tác giả Việt Nam phần nào
ngại ngùng.
Hơn nữa những tác giả có uy tín và thận trọng thường
sửa chữa nhiều lần tác phẩm của mình trước khi chính thức trình làng vì thế họ
không muốn đăng ký ngay.
Ðây là lúc mà những hội nhà văn, hội văn bút có thể
đóng góp khá hiệu quả trong việc bảo vệ bản quyền cho đồng nghiệp của mình để
họ không cần chính thức đăng ký ngay mà vẫn bảo vệ được tác quyền.
Những hội có uy tín quốc tế, hoặc những hội có license
có thể tạo một bộ phận ghi nhận bản thảo của nhà văn toàn phần hay từng phần
trong quy trình thực hiện tác phẩm.
Sự ghi nhận này không có giá trị tuyệt đối nhưng là
một phần quan trọng trong trách nhiệm trưng ra bằng chứng “burden of
evidences). Ðây chính là những dữ kiện giúp đễ dàng trong việc bảo vệ bản
quyền.
Kế đó những hội văn hoá có thể đứng ra làm trọng tài hay phân xử sơ bộ những vi phạm
bản quyền vô tình hay cố ý, đôi khi sẩy ra ngay trong giới sáng tác như mới đây
có vụ nhà văn Hà Thúc Như Hỉ và bà Nhã Ca đồng thời xác nhận là tác giả truyện
phim “Ðất Khổ” đã được quay thành phim. Vai trò trung gian, trọng tài của những
hội nhà văn sẽ giúp giải toả êm đẹp trong trường hợp này.
Său cùng là khi có sự vi phạm xét ra quá rõ ràng và một
nhà văn không đủ phương tiện để trang trải phí tổn tranh tụng để tự vệ thì hội
sẽ yểm trợ, bảo trợ việc tranh tụng nếu xét có đủ bằng chứng. Ðây có thể coi là
những toà án bán chính thức trong giới sáng tác, tuy không có giá trị luật pháp
nhưng có giá trị về mỹ học và nghĩa vụ luận trong giới sáng tác.
Trong thực tế, việc vi phạm bản quyền đôi khi quá rõ
ràng nhưng đôi khi cũng rất phức tạp vì thế những ý kiến mang tính chuyên môn
“expertise” của những nhà văn, nghệ sỹ có thành tích, có chiều dài sinh hoạt
nghề nghiệp trong hội nhà văn sẽ có giá trị cao trước luật pháp.
Thí dụ khi một tác phẩm, một bài văn bị đánh cắp và
sửa chữa, đạo văn, đạo nội dung, nếu được một hội đồng chuyên viên đánh giá gồm
những nhà văn, phê bình gia văn học chuyên nghiệp mang xo sánh dưới kính chiếu
yêu tất nhiên sẽ thấy ngay được sự vụng về hay chắp vá và những dữ kiện phát
hiện này sẽ được sự dụng như những bằng chứng để soi sáng sự thật
Người
Hoa Kỳ họ rất tinh tế trong vấn đề này thí dụ nhà bình luận gia nổi tiếng của
tờ Newswek là Fareed Zakaria trích đẫn nguyên con một đoạn
văn trong bài viết của người khác, đã bị tổ chức Anonymous Media
Watchdogs (giám sát
truyền thông ẩn danh ) phát hiện và bị tờ báo treo dò như môt vết
đen nghề nghiệp. Tỷ phú Donald Trumm hiện ra ứng cử tổng thống Mỹ đang bị chị
trích vì xử dụng bài hát Rockin’ in the free world của nhạc sỹ Niel Young để
làm nhạc đề tranh cử mà không có phép của nhạc sỹ này. Mọi người đều có thể hát
bản nhạc này nhưng xử dụng nó cho một mục tiêu mang tính thương mại lại là một
vi phạm bản quyền.
Những hội đoàn Việt Nam tại hải ngọai có hoạt động
liên quan tới giới sáng tác cũng có thể có những hoạt động tương tự như tổ chức
Media
Watchdogs nói trên để
phát hiện, phân sử khi có nhữõng vi phạm bản quyền.
Khoản về Fair used của luật bản quyền cho phép trích
dẫn hay dùng những dử kiện của một tác phẩm xuất bản trước nhưng sự xử dụng ý
kiến, sáng kiến này không thể là sự ăn cắp toàn bộ một tác phẩm mà phải là sự
xử dụng những dữ kiện cũ để tạo thành một sáng tác hoàn toàn khác lạ, đưa tới
những nhận định, ý kiến những khai phá mới.
Một vài văn nghệ sỹ Việt Nam ở hải ngoại còn bị bọn con
buôn, bọn háo danh cướp cơm chim trắng trợn. Cốt truyện của họ bị mang quay
phim, truyện của họ, nhạc của họ bị cướp
bản quyền vì không có tiền thua kiện hay không hiểu biết về luật pháp.
Phần trình bầy nói trên chỉ là sự đúc kết, xuy diễn từ những
tài liệu và tham khảo với các luật sư nhưng không thể coi là một lý giải đúng
tiêu chuẩn luật định. Sự tham khảo trực tiếp với luật sư đại diện mới được kể
là chính thức. Tam khao LS Daniel hOANG, lS DOAN VAN THINH