Mỹ Việt
Những Duyên và Nghiệp
Tháng 5 năm 1803 thuyền
trưởng Hoa Kỳ Geremiah-Briggs trên chiến thuyền Fames bỏ neo tại vịnh
Touron (Đà Nẵng) được coi như cuộc tiếp
cận đầu tiên của tân quốc gia Hoa Kỳ với xứ Cochinchina ( vương quốc Việt Nam).
Briggs đến Việt Nam vào
giai đoạn chót của cuộc nội chiến kéo dài gần 100 năm, vào lúc mà Nguyễn Ánh
tái chiếm vùng đất tổ Phú Xuân mới được vài tháng.
Như một duyên lành trong
mối giao tình giữa hai quốc gia, Briggs được Nhà vua đón nhận niềm nở nhưng khi
nhìn những sỹ quan Pháp đang điều khiển chiến thuyền của nhà vua, thuyền trưởng
liên tưởng ngay đến hiệp định Versaille (giữa Louis 16 và Bá Đa Lộc) và không
khỏi chạnh lòng ghen tức với tư thế của người Pháp mà theo ông “họ chỉ
mới làm chủ hải cảng này chừng 6 tháng.
Hiệp định này khong được
Pháp thi hành và Gia Long không thừa nhận nhưng có ghi việc nhường hải cảng Đà
Nẵng cho nguời Pháp
Său Geremiah-Briggs, 16 năm
său, 1819, lúc Minh Mạng mới lên ngôi một vài thương thuyền của Hoa Kỳ
từng lướt qua những hải cảng của Việt Nam nhưng dấu ấn sâu đâm nhất trong cảm
quan của Hoa Kỳ đối với Việt Nam là chuyến thăm dò lâu dài nhưng tràn đầy thất
vọng trong cái nhìn của White về Việt Nam. Một xứ sở mà theo Whites có dư thừa
tiềm năng để phát triển nhưng bị thống trị bởi một chính quyền phân tán uy
quyền, chia rẽ, thủ cựu, tham nhũng lộng hành
lại vương quyền lại được duy trì như một tập tục, một thứ thuốc an thần
ban phát cho mọi thế lực để tạm ổn định tân chế độ
Những nhận xét chua cay của
Whites hiển nhiên không phải là cái nhìn mang tính cao ngạo quen thuộc của đám thực dân đối với những vùng đất bên
ngoài Âu Châu mà họ cho là còn bán khai, mọi rợ. Ghi nhận của Whites trái lại,
rất trung thực dù mang nhiều cảm tính qua những quan hệ không may của cá nhân
đương sự với đám quan chức Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng không thể
trách được vì đó là là sự thiếu hiểu biết của một ông trung uý Hải quân về
những yếu tố địa dư chính trị (geopolitic)
và nhân văn nơi vùng đất mà ông tới viếng thăm.
Nói khác đi,Whites không có
cái nhìn bình tĩnh, khách quan cũa những học giả hay chính trị gia người Anh
như John Barrow hay Crawfurd hoặc những linh mục Công giáo từng bám trụ trên
đất Việt Nam trong nhiều năm nên những nhận xét của Whites tuy trung thực nhưng
lạc lõng vì không được đặt trong cái “nội dung” của một cuộc nội chiến tàn độc
kéo dài quá lâu mà hậu chấn của nó khiến lòng người phân tán, mất tin tưởng ở
tương lai. Tiếp theo đó là giai đoạn quá độ, kiêu binh của thời hậu chiến trong
giới cầm quyền quân sự và thế lực vươn lên của đám quan văn đang củng cố thế
lực quanh triều đình Huế xuốt 10 năm đầu của tiều đại Minh Mạng.
Cung cách hành xử co cụm về
đối ngoại của triều đình Minh Mang tạo thành một nền nếp cho những triều đại kế
tiếp và càng ngày càng cố chấp thụ cựu hơn với kết quả là đẩy đất nước vào vòng
nô lệ của thực dân Pháp.
Tuy nhiên, những ghi nhận “thô”
của Whites, hay những ghi nhận “khách quan tuyệt đối” của những nhà ngoại
giao như Barrow hoạc Crawfurd vẫn vô cùng quý giá vì đó là những ghi nhận trực
diện và chi ly về một giai đoạn lịch sử, về một số nhân vật lịch sử mà ngay
trong dòng sử Việt cũng chỉ được nói tới mơ hồ hay tổng quát do những hạn chế
nghiêm ngặt đối với sử gia Á Châu duới
một chế độ quân chủ, độc tài, toàn trị trong đó một câu nói vô tình, một ghi nhận
trung thực có thể trả giá bằng tính mạng.
Các sử gia Việt Nam thời
trước, thường không viết nhiều về thời đại mà họ đang sống, nếu có viết thì
cũng chỉ ghi những điều tốt, ghi nhận vòng vo những sai lầm, tìm cách biện minh
để gở tôi cho chủ vì thế, những mảnh
lịch sử về cá nhân những nhân vật lãnh đạo, những gương mặt kiệt xuất của thời
đại thường lẫn vào dã sử khiến thế hệ său có thể tin hoặc không tin giữa huyền
thoại, tâng bốc hoặc bôi bác những đối tương lịch sử.
Đối với Minh Mạng thì Lê
Văn duyệt là một “Quyền yểm” nhưng với John White thì Lê Văn Duyệt có một phong
thái uy nghi lẫm liệt, có tính tò mò ham hiểu biết, cố đầu óc phóng khoáng luôn
luôn muốn trao đổi kiến thức và cũng có một kiến thức rộng rãi.
Ghi nhận của những người
ngoại quốc, những học giả, thường rất chính sác và sống động ngay cả những nhà
tu Công Giáo tuy thù ghét Minh Mạng và lo sợ cho tương lai của đạo giáo cũng
không thấy có những chi tiết mang tính bôi bác nhà vua, cùng lắm là bôi bác với
nhãn hiệu : “ông hoàng tử đen đủi”
Qua John Barrow, người ta
được biết những chi tiết kỳ lạ không được ghi trong chính sử hay dã sử thí dụ
như việc “thủ tiêu giả vương” Phạm Công Trị”.
Chuyện sát nhân diệt khẩu
này có thưc hay không.? Cho đến nay chính sự hay dã sử Việt Nam không hề đề cập
tới nhưng để tin được điều này, có thể đặt ngược lại câu hỏi là có lý do gì, Barrow, một học giả với cái
truyền thống ghi chép sự thật rất khoa học của người Anh có thể hốt nhiên bịa
đặt ra chuyện này.
Hơn nữa, tại sao không đặt
câu hỏi là său vụ đi sứ thành công huy hoàng, vai trò của giả vương tan biến đi
không hề được nhắc lại trong bất cứ biến cố chính trị hay quân sự nào của triều đại Quang Trung.
Phải chăng cả hai phía Việt
Nam và Trung Hoa đều biết sự thật vụ giả
vương nhưng cả hai phía đều giả mù sa mưa để bảo vệ những quyền lợi, những thực
tế chính trị và sỹ diện tương ứng ở hai phía, miễn là sự thật phải được chôn
chặt dưới đáy mồ.
Phía Trung Hoa ngụy tạo
và trình diễn thảm bại của thiên triều
thành một chiến thắng vì vở kịch này đưa lại kết quả chung cuộc có lợi cho cả
hai phía.
Trung Hoa vẫn duy trì, bình định được một chư hầu lớn hơn
cả lãnh thổ của vua Lê, vượt qua đèo Ngang và sông Gianh tới tận Hà Tiên đấy là
chưa kể với triển vọng thế lực quân sự dũng mãnh của Quang Trung, cái chư hầu
mới của Càn Long tương lai còn lan tới cả vùng đất Vạn Tượng hay Cam Bốt. Dù có
vươn lớn thì vẫn là chư hầu.
Là một nhà cai trị khôn
ngoan, một chiến lược gia lỗi lạc Càn Long dư biết điều này vì ngay trong biểu
chương cầu hoà Quang Trung đã minh sác điều này khi nói rằng
tổ phụ của ông từ chín thế hệ qua đã cai trị vùng Quảng Nam đối nghịch với
Annam của vua Lê.
Phía Quang Trung thì có được sự yên tâm, tạm
yên vì có sự thừa nhân của phương Bắc để
lo giải quyết nhưng khó khăn khẩn cấp như chia rẽ nội bộ, chính yếu là đối phó
với thế lực đang lên của Nguyễn Anh
Sự dàn xếp vì thế tốt đẹp
cho cả hai phía nhưng điều quan trọng là nhân chứng vật chứng phải bị thủ tiêu.
Cũng qua John Barrow, người
ta được nhìn nhân dạng đích thực của Nguyễn Ánh, một Nguyễn Ánh bằng sương bằng
thịt uy dũng trên chiến trường, một cấp chỉ huy khôn khéo được lòng thuộc cấp,
một người con hiếu, một người chồng chung thuỷ, một lãnh tụ thức khuya giậy
sớm, để mắt trông coi mọi việc, bữa cơm thanh đạm với cá khô.
Những chi tiết này bổ sung
mặt thứ hai của Gia Long, về cuộc trả thù tàn bạo với Tây Sơn, tính đa nghi
tuyệt đối khiến ông sãn sàng triệt hạ mọi người dù là công thân từng phải di ăn
cướp để nuôi mình như Nguyễn Văn Thành.
Một trong những tiết lộ
quan trọng nhất của Barrow là toàn văn bản hiệp ước Versaille một tài liệu
không được lưu giữ và không được nói đến
rõ ràng trong sử Việt Nam.
Bản hiệp uớc này là “tài
sản riêng” của ông cố đạo đầy tham vọng Bá Da Lộc, được ông mang theo xuống đáy
mồ.
Cũng qua Barow người ta
được biết câu chuyện “bà mệnh phụ thành Vienne “ người đã làm tan vỡ bản hiệp
định này để tránh cho Việt Nam không bị rơi ngay vào vòng nô lệ của thực dân
Pháp.
Phía người Anh xuốt hai thế
kỷ 17 &18 vẫn không ngừng nhòm ngó
khắp nơi để bành trướng đế quốc của mình.
Là vua trên mặt biển, chiến
thuyền Anh Quốc tung hoàng trên bốn đại dương không đối thủ và một khi họ nhòm
ngó và một vùng đất nào thì nơi đó khó lòng thoát khỏi móng vuốt của họ.
Ơ Việt Mam va chạm đầu tiên
với đế quốc Anh là việc chiếm cứ đảo Côn Sơn để biến thành một căn cứ thương
mại trên con đuờng mở vào thị truờng Trung Hoa.
Nhờ sự khôn khéo, Chúa
Nguyễn đã lấy lại được mảnh đất này cho Việt Nam. Vô cùng may mắn vì hòn đảo chơ
vơ này tuy không có giá trị kinh tế và cũng chưa có sự minh định chủ quyền của
triều đình Việt Nam trong giai đoạn đó,
vì vậy, nếu người Anh quyết tâm giữ lại được đảo này thì nó có thể sẽ trở thành
một sở hữu vĩnh viễn, một đầu cầu đầu tiên mở vào Đông Dương như một mũi nhọn
thứ hai áp lực vào phía Nam của Trung Hoa.
It nhất thì Côn Sơn sẽ
thành một hòn đảo trấn át bán đảo Đông Dương tương tự như hòn đảo Malvinas ở Á
Căn Đình cách xa chính quốc cả một đại dương vậy mà người Anh đã chiếm cứ làm
đầu cầu mở vào đại lục Nam Mỹ , đổi tên thàn Faulkland và cố giữ tới ngày nay.
Barrow, con mắt soi mói của
thực dân Anh trong giai đọan chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn Ánh cho thấy tiềm lực
quân sự của Việt Nam trong cái đà phóng của chiến tranh không phải là thổ dân
bán khai trên những hải đảo hoang dã mà là một thế lực quân sự khó bị áp đảo,
rất khó nuốt dù Tây Sơn hay Nguyễn Ánh.
Barrow tới Việt Nam trong
thời nội chiến, người Anh thứ nhì tới Việt Nam là Crawfurd năm 1821 vào giai
đoạn khởi đầu của triều đại Minh Mạng (1820-1841)
Giai đoạn này cái khí thế
và thực lực quân sự của Việt Nam
trong thời chiến còn nguyên vẹn nhưng bên cạnh cái tâm lý kiêu ngạo này cũng là
sự lo sợ thế lực và những âm mưu của Tây Phương tiềm ẩn trong những đại thần
quân sự thân Tây Phương của tiên đế.
Thái độ của triều đình Huế
là cố gắng hoà nhã với người ngọai quốc nhưng tìm mọi lý do để né tránh việc
tiếp cận, giao tiệp.
Thái độ co cụm để phòng thủ
thụ động này là mở đầu cho một tiền lệ bế quan toạ cảng càng ngày càng trở nên
chặt chẽ, ngoan cố hơn trong những triều đại kế tiếp của Thiệu Trị và Tự Đức
trong lúc bộ máy quân sự của Việt Nam cũng rỉ sét đần như những khẩu thần công
(niềm hãnh diện của Gia Long) đang phơi mưa nắng trong cái thành quách kiên cố
ở Huế.
Crawfurd ghi nhận kỷ luật
và sức mạnh của quân đội Việt Nam
nhưng cho rằng quan điểm chiến thuật và võ khí thì hoàn toàn thụ động lỗi thời.
Một cách tương đồng cung cách đối ngoại của Việt Nam thời Minh Mạng cũng như vậy.
Cái quan niệm thủ thành Saigon
hay Huế làm mất đi tính linh động của bộ binh sẽ không đương cự được một cuộc
tấn công lâu dài và tập trung của hoả lực hải pháo vì quá gần những thuỷ lộ
chính. Khi những thành quách pháo đài chính yếu này bị khuất phục thì toàn bộ
hệ thống phòng ngự cũng sụp đổ theo.
Mặt khác thì đế quốc Anh giai đọan này đã quá lớn để
có thể quản trị hữu hiệu và có lợi nên việc chiếm cứ Việt Nam không phải là ưu
tiên hàng đầu nhưng điều mà người Anh e ngại nhất là việc người Pháp sẽ chiếm
lãnh khu vực này.
Dưới dạng bảo hộ được gọi
là “Britist Raj “ từ 1819 người Anh đã kiểm soát được Sigapore, cái cổ
họng trên hải trình Âu Á nhưng họ vẫn không yên tâm vì cho rằng nếu người Pháp
kiểm soát được khu vực duyên hải Việt Nam
thì họ có thể gây trợ ngại lớn cho hạm đội Anh trong việc khai thác cái
thị trường khổng lồ và đầy hấp dẫn là đại lục Trung Hoa.(thuyền bè phải đi sát
về phía bờ biển Việt Nam tránh đá ngầm Hoàng Sa)
Người Anh cũng biết rất rõ
về cái hiệp ước Versaille không được thi hành giữa Pháp và Việt Nam nhưng trong
cái thời đại gọi là “ngoại giao tầu chiến” thì cái hiệp định này sẽ là cái cớ tiên khởi để người
Pháp tái xâm nhập vùng Cochinchina.
Phải tìm một cách nào đó
khống chế Việt Nam
vì vậy vẫn nằm trong sự quan tâm của Anh quốc như ghi nhận của Barrow:
“Anh quốc, cần vươn móng
vuốt của mình để nắm giữ hết mọi cứ điểm quan trọng vì chúng sẽ đóng góp cho những
giá trị tinh thần, đầu óc kỹ kỹ thuật và mạo hiểm của nước Anh.
Kết luận một cách trắng
trợn, Barrow cho rằng:
“Ngoài vấn đề an
ninh, việc nước Anh chiếm hữu Turon và sát nhập và đế quốc Anh sẽ cho phép hạm
đội Anh xử dụng hải cảng này trong việc thương mại với Trung Hoa.
Mặt khác, nếu khu vực này rơi vào tay một đối
thủ tích cực trong lãnh vực thương mại, họ sẽ tạo cho nước Anh nhiều phiền
phức.
Nếu có một hải cảng an toàn nơi mà nước uống và
mọi thứ tiếp liệu tươi có thể mua ở địa phương thì nó sẽ đóng góp nhiều lợi tích cho các hoạt động
thương mại từ Ấn Độ. Đây là những điều
không thể coi nhẹ” .
Tóm lại, giữa cao trào thực
dân thế kỷ 17-18, Việt Nam dưới thời Minh Mạng, tưởng có thể yên ổn trong hang
động của mình nhưng con mắt cú vọ của đám thực đân Anh Pháp không lúc nào rời
khỏi mảnh đất mang tính chiến lược này.
Phía người Anh, con đường
dự trù để mở vào Trung Hoa său khi chiếm Miến Điện cho thấy không thuận lợi vì
quá hiểm trở, Việt Nam với những hải cảng và một khí hậu mà người Anh cho là “tuyệt
vời” là một miếng mồi quá hấp dẫn.
Phía người Pháp với cái vốn
đầu tư của ông cố Ba đa Lộc và cái nền móng Kyto gíáo được hàng trăm ông cố đạo
vun bồi qua nhiều năm từ Nam Hà tới Bắc
Hà hiển nhiên cũng không thể quên được mảnh đất Annam mà họ đã tốn nhiều công
đầu tư.
Trước những con thú dữ đang
dình mồi này, chỉ còn một quốc gia duy nhất quyết tâm không hùa theo tham vọng
của thực dân, đó là cái quốc gia non yểu mới ra đời mà vào lúc Minh Mạng lên
ngôi tuổi đời mới được 43 năm. Nước Mỹ hiệp chủng với một tiềm năng của cả một
đại lục trinh nguyên và tinh hoa của những con người cùng khổ vượt thoát áp bức, bóc lột, chiến tranh từ Âu
Châu, đã vươn vai lớn mạnh như một phép mầu.
Không nên quên là Hoa Kỳ
lúc mới thu hồi độc lập tháng 7-1776 không phải là Hoa Kỳ của thế kỷ 20
ràng buộc trong những tham vọng và nghĩa vụ phức tạp để duy trì tư thế minh
chủ thế giới său hai cuộc đại chiến khi
mà kỹ nghệ võ khí tân tiến có thể đưa nhân loại tới tận diệt.
Hoa Kỳ ở sinh nhật thức 43
lúc tiếp súc với Việt Nam
rất đơn giản, chân thành, lương thiện. Sống hạnh phúc , tự do, dư thừa trên một
đại lục vắng người nên không có tham vong đất đai bên ngoài sự bành truớg tự
nhiên trên cái đại lục Mỹ Châu mênh mông, hoang dã..
Thoát thân từ một thuộc địa
của người Anh, những con người khốn cùng muốn quên đi cái lục Âu Châu đầy áp bức của những vua chúa, quý
tộc mà họ gọi là Cựu thế giới.
Cái quốc gia gọi là Hiệp
Chủng quốc Mỹ Châu là một Tân Thế Giới (a new world) trong
những năm đầu lập quốc đã mang cái tinh thần lương thiện, ngay thẳng và hồn
nhiên đó đến một Việt Nam già nua, oằn oại cả thế kỷ trong chiến tranh, dắm
chìm trong thù hận, nghi kỵ nên hai phía đã không thể xáp lại gần nhau mặc dù
thái độ của triều đình Việt Nam tuy e dè nhưng không chống đối việc tiếp cận của
Hoa Kỳ trên phương diện thương mại. Ngược lại
Hoa kỳ cũng muốn xáp lại gần Á Châu để cạnh tranh với đám thực dân.Thuyền bè Hoa Kỳ đến Việt Nam vẫn được
tiếp đón, mua đồ tiếp liệu, hàng hoá nhưng không có trao đổi ngoại giao chính
thức nào.
Chỉ mới 43 năm độc lập
nhưng với quyết tâm và trí tuệ của những con người quyết liệt muốn sống còn
trên một mảnh đầt mênh mông tràn ngập tải nguyên như thời tiền sử, Hoa kỳ mau
chóng trở thành một cường quốc kỹ nghệ và quân sự.
Như khuynh hướng ngó về cố
quận của những người di dân, mọi hoạt động trao đội mậu dịch cuả Hoa Kỳ trong
giai đoạn đầu chỉ chú mục nhiều tới Âu Châu hơn là khu vực Thái Bình Duơng.
Phải đợi său nhiều vận động
của Edmund Robert và John Shillaber Hoa Kỳ mới thấy cần phải “chuyển trục về Á Châu Thái Bình Dương” là một khu vực từ
trước vẫn là địa bàn tung hoành không đối thủ
của đám thực dân Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hoà Lan său đó là Anh, Pháp.
Tại khu vực này, Hoa Kỳ
không có thuộc địa và không có quan hệ ngoại giao hay thực lực quân sự nên không
những bị lép vế thua thiệt trên thương trường nhất là ở những khu vực đã bị
thuộc địa hoá mà đôi khi còn bị đàn áp, khủng bố .
Său nhiều khuyến cáo của John
Shillaber, sứ thần chính thức và đầu tiên của Hoa Kỳ Edmund Roberts
được gửi tới khu vực Nam Thái Bình Dương trong gia đoạn chuyển trục này dù đã
thành công trong việc thiết lập thương ước với một vài quốc gia trong vùng
nhưng khi tới Việt Nam đành chịu thất bại.
Chuyến thất bại đầu tiên
này là do lỗi cả hai phía mặc dù cả hai phía như đều hối tiếc đã để mối quan hệ
đi đến thất bại. Phía Việt cũng như phía Hoa Kỳ.
Tạp chí The Saturday
Review năm 1883 ghi nhận Minh Mạng theo lời trăn chối của tiên đế
Gia Long rất e ngại người Pháp. Trong giờ phút trước khi lâm chung, Gia Long đã
vời hoàng tử Đảm tới bên giường bệnh, để trăn trối cái khẩu quyết cuối cùng
trước khi giao trọng trách gánh vác cơ đồ nhà Nguyễn:
“Hoàng nhi hãy yêu
nước Pháp và người Pháp nhưng đừng để một tấc đất nào của giang sơn này rơi vào
tay người Pháp.”....
Lo ngại người Pháp, lo sợ
sự áp đảo của những võ quan uy lực thân người Pháp và Tây Phương nhưng ở một
mặt khác Minh Mạng cũng biết sợ sức mạnh của Tây Phuơng “vì thuyền của họ
chạy rất mau”, nhất là với thực dân Anh mà sự bành truớng của đế quốc này
đang lan rộng từ Ấn Độ qua, Miến Điện, quần đảo East Indies vốn là những điều
không xa lạ gì với triều đình Việt Nam.
Minh Mạng thật ra
trong thâm ý cũng muốn kết thân với người Anh như một đối trọng với người Pháp
vì cuộc chiến dành đất giữa Anh và Pháp ở Ấn Dộ cũng là điều mà mọi người ở
Việt Nam đêu biết .
Phái đoàn Anh của Crawfurd
khi tới Huế cũng từng bị các quan đặt câu hỏi về cuộc tranh giành giữa Anh và
Pháp.
Tuy nhiên sự nghi kỵ, đề
phòng Tây Phương vẫn thường trực có trong trí óc triều đình Việt Nam :
“Người Việt nhìn những người tóc đỏ răng trắng tức là những người Âu châu
là những người bẩm sinh muốn chiến tranh và luôn luôn rình rập như cọp dữ ”.
Cái tâm lý chung của triều đình Việt Nam nhất là những đại thần vây
quanh Minh Mạng pha trộn giữa mặc cảm lo sợ, cảnh giác, đề phòng ngoại nhân
song hành với những kiêu hãnh về chiến tích cũ của thời nội chiến.
Ngay cả đại thần Lý Văn Phức người từng công du ngoại quốc từ
Trung Hoa tới Phi Lụat Tân, Singapore cũng tìm cách bịt mắt Minh Mạng với một
sớ trình rất vô lý :
:Ngoại nhân cho biết mục
đích của họ là thiết lập một quan hệ thương mại tốt đẹp với nước ta.
Lời lẽ của họ biểu lộ sự
kính trọng và lịch lãm tuy nhiên khi phiên dịch lá quốc thư cho thấy có nhiều
điểm không hợp lý nên triều đình đã quyết định như sau:
Xét thấy không cần thiết, không cần tiến
dẫn bức thư tới Hoàng thượng. “
Tâm lý “bằng mặt không bằng
lòng” như đã thấy thể hiện trong việc đón tiếp các chiến thuyền ngoại quốc với
những yến tiệc hàng trăm món và quà tăng do hoàng thượng thù tạc, mặt khác là
phòng thủ thụ động qua việc tìm cách phô trương lực lượng với những thành luỹ
kiên cố, những kho súng nhưng đồng thời tìm cách để từ chối giao thiệp qua
việc ép đặt những thủ tục ngoại giao khó
khăn, những cuộc tranh luận đấu trí để chứng tỏ mình là người tài trí, có văn
hoá.
Cung cách đấu trí lỗi thời
như khi những sứ thần Việt Nam
sang Trung Hoa đọ trí với người Tàu, thắng thua ngoại giao, quốc thể, quan hệ
thực tế giữa hai quốc gia nằm trong nhưng cuộc đấu trí miệng lưỡi này. Người ta
cho đó mới là văn minh, là có văn hóa
Phía Hoa Kỳ, với tinh thần thực tiễn không cho họ
hiểu như vậy nên chỉ quan niệm thái độ của triều đình Việt Nam như một giấu hiệu thiếu thiện
chí, không thân thiện.
Riêng Minh Mạng rõ ràng không chống đối việc
tiếp phái đoàn Hoa Kỳ khi nhà vua nói:
“Vượt qua những đại dương cách xa hàng
vạn dặm phát khởi về lòng ngưỡng mộ uy lực và đức hạnh của triều đình, họ đã
tới đây. Nếu chúng ta quyết liệt cắt đứt mọi liên hệ với họ thì chúng ta sẽ tỏ
cho họ thấy là triều đình thiếu sự rộng lượng và thiện trí”.
Vì thế ngay
khi phái bộ Roberts đã bỏ đi Minh Mang đã cho người khẩn cấp liên lạc nhưng đã
muộn,
Phía Hoa Kỳ như cũng thấy thất bại là lỗi của
chính họ vì không đủ khôn khéo ngoại giao theo cung cách Á Châu nhất là cái
cung cách giao thiệp quá mới lạ khó hiểu với Việt Nam.
Ngay cái ý niệm dân bầu một ông tổng thống cai trị một nước
còn mang theo một niềm đe doạ nguy hiểm với một đế chế.
Vua là thiên tử, con của
thượng đế, ông trời, việc họ lên nắm quyền dù là một biến cố chính trị nhưng
phải được quan niệm là một sứ mạng thiêng liêng, một thiên mệnh.
Cuộc cách mạng Pháp 1769 đã làm nhiều ông
hoàng Đông Phương , ngay cả Gia Long cũng lo sợ. Nhận xét này đã được những
linh mục ghi nhận.
Khi Bá Đa Lộc và Hoàng tử
Cảnh về đến Vũng Tầu ngày 28-7-1789, cuộc cách mạng Pháp cũng vừa bùng nổ. Tình
thế Âu Châu và nước Pháp đã hoàn toàn biến đổi. Với bản tuyên ngôn nhân quyền,
lần đầu tiên nhân loại được nghe nói đến quyền làm người trong bình
đẳng và tình huynh đệ. Cái chấn động của cuộc cách mạng này làm rung chuyển
những nền đế chế Âu Châu, đưa đến một cuộc chiến tranh hậu cách mạng
giữa phe bảo hoàng của các quốc gia lân cận và phe cách mạng Pháp.
Có lẽ chính bộ ngoại giao
Hoa Kỳ cũng nhận thấy cung cách tiếp cận của Roberts là thiếu uyển chuyển nên
mới có cuộc tiếp xúc lần thứ hai trong bộ ngoại giao đã nhấn mạnh với đại sứ
Roberts:
Ông cần tự điều để
chỉnh thích nghi với “phong tục và cách suy tư “ của những quốc gia liên hệ
“bất kể những phong tục này phi lý đến chừng nào.”
Với chỉ thị cho phép uyển
chuyển và mềm dẻo này, nổ lực lần thư
hai có nhiều triển vọng sẽ thành công nhưng như một định mệnh, ngay khi
tới Việt Nam trong chuyến công du lần thứ hai này, đại sứ Robers lâm trọng bệnh và đang hấp hối.
Cuộc thảo lận diễn hoảng
hốt ra giữa hai thế giới xa lạ không thông hiểu ngôn ngữ văn hoá của nhau, ngăn
cách bởi thiên kiến và nghi ngờ, với một ông đại sứ đang hấp hối, phía kia là
những ông quan thủ cựu cố chấp tự cho rằng những trò đấu trí miệng lưỡi làm khó
đối tượng dược coi là một chiến thắng.
Dù vậy, phía Hoa Kỳ, những
nỗ lực đả thông tất nhiên sẽ còn phải tiếp diễn vì đó là một nhu cầu mở vào thị
trường Á Châu để tranh thủ cái thị trường hấp đãn này với phe thực đân như sẽ
thấy trong sứ mạng của sứ thần Balestier său này.
Rất không may là hai sứ
thầm Hoa Kỹ đã đén việt Nam său vụ thuyền trưởng Jack Điên vô cớ can thiệp vào
nội bộ Việt Nam, bắn phá và đổ bộ vào Đà Nẵng .Bién cố náy đã vô hiệu hoá mọi
nỗ lực său này của Hoa Kỳ trong việc đả thông với Việt Nam.
Lòng nghi kỵ Tây Phương,
bọn mọi rợ mắt xanh mũi lõ ăn sâu trong trí óc những nhà lãnh đạo Đông Phương
trở thành cụ thể hơn bao giờ hết.
Său vụ Mad Jack, cánh cửa
và vương quốc Việt Nam đóng chặt với người Tây Phương cho đến lúc thực dân Pháp
phá cửa xông vào để áp đặt cái gông nô lệ lên cổ người Việt trong vụ tấn công 7
ngày vào vịnh Đà Nẵng của liên quân Pháp- Tây Ban Nha giữa lúc Vua Tự Đức đang
hấp hối.
Chỉ mới 63 năm qua từ cuối đời Gia Long, những
trận hải chiến long trời lở đất, tiếng súng thần công gầm thét, những hạm đội
uy nghi của Thần Sách Tả Quân Lê văn Duyệt như sự mô tả của thuyền trưởng
White, chỉ còn là những bóng ma dĩ vãng, trong lúc hạm đội Pháp Tây chỉ vói một
hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến đổ bộ vào Đà nẵng
(con tiep)